Thứ Tư, 28 tháng 5, 2014

Bệnh gut thứ phát

Bệnh gut còn được gọi là bệnh thống phong. Bài trước chúng ta đã tìm hiểu về bênh gut nguyên phát, bài này chúng ta sẽ tìm hiểu về bệnh gut thứ phát. Về biểu hiện lâm sàng của bệnh thường là hội chứng viêm một hoặc nhiều khớp cấp tính, tái diễn và một số biến chứng ở cơ quan khác. Khi triệu chứng lâm sàng xuất hiện là bệnh nhân đã có tăng axit uric trong máu một thời gian dài, nhưng cũng có một số trường hợp chỉ có hội chứng tăng axit uric máu mà không dẫn đến viêm khớp gut. Hội chứng tăng axit uric và bệnh gut có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau. 
Bệnh gut thứ phát chiếm tỉ lệ rất thấp thường từ 5% đến 10% so với gut nguyên phát, nhưng lại nặng hơn và khó điều trị. Trong nhóm bệnh gut phụ nữ, gut thứ phát lại chiếm tỉ lệ khá cao, thường cao hơn nam giới.

Hình ảnh bệnh gut

Một số bệnh gut thứ phát đi kèm với các bệnh lý:

Gut và bệnh tăng huyết áp: Người ta nhận thấy nồng độ acid uric máu của bệnh nhân tăng huyết áp thường cao hơn nhóm chứng. Các nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa bệnh tăng huyết áp và tăng acid uric máu mang tính độc lập cho dù có hay không có suy thận và sử dụng thuốc lợi tiểu. Người ta cho rằng Noradrenalin và Angiotensin II có vai trò trong việc làm tăng acid uric máu thông qua cơ chế làm giảm bài tiết acid uric qua ống thận.

Gut và suy giáp: acid uric máu trên bệnh nhân suy giáp thường cao hơn nhóm chứng.
  
Gut do suy thận: Khi urê huyết vượt quá 1g/l thì hầu hết bệnh nhân đều có tình trạng tăng acid uric máu kèm theo. Tăng acid uric cũng rất thường gặp trong nhiễm độc thai nghén và ngộ độc chì, thông qua tổn thương ở cầu thận. Ngoài ra, người ta còn thấy hội chứng tăng acid uric máu ở bệnh nhân đái tháo nhạt do nguyên nhân thận. Một số trường hợp bệnh nhân đến khám bệnh vì viêm khớp gut, đồng thời phát hiện được tình trạng suy thận song song, đã đặt ra cho chúng ta vấn đề về chẩn đoán nguyên nhân, gout là nguyên nhân hay là hậu quả của suy thận. Theo kết quả của nhiều công trình nghiên cứu, tăng acid uric thường là nguyên nhân đối với nhóm nam giới và ngược lại, là hậu quả của suy thận, đối với nhóm nữ.


Hình ảnh bệnh gut
Gut do thuốc lợi tiểu: Cơ chế của hội chứng tăng acid uric do thuốc lợi tiểu là giảm thải trừ acid uric qua ống thận một cách gián tiếp thông qua việc làm giảm thể tích máu lưu thông dẫn đến tăng tái hấp thu acid uric. Sử dụng thuốc lợi tiểu làm nặng thêm bệnh gout sẵn có hoặc làm phát sinh bệnh. Điều trị bệnh, ngoài việc ngưng thuốc, nhóm thuốc tăng thải acid uric là chọn lựa phù hợp với cơ chế bệnh sinh, tuy nhiên allopurinol vẫn cho kết quả tốt.

Gut do vảy nến: Trong khi điều trị và theo dõi bệnh vảy nến, người ta nhận thấy acid uric máu trung bình của nhóm này cao hơn nhiều so với nhóm chứng. Hội chứng tăng acid uric máu của nhóm này thường có liên quan đến quá trình thoái hóa nucleiprotein do tổn thương tế bào biểu bì. Vì vậy, khi tổn thương da càng nhiều, càng tiến triển thì acid uric máu càng cao.

Gut do bệnh lý huyết học: Bệnh gout thứ phát do nguyên nhân huyết học có thể gặp ở bệnh lý tăng sinh tủy, đặc biệt khi đã có biến chứng suy thận, như: Đa u tủy, bệnh lý globulin, Xơ tủy (myélosclérose), Bệnh bạch cầu cấp hay mãn dòng tủy hay dòng lympho, Thiếu máu bất sản...
Tăng acid uric trong nhóm bệnh huyết học chủ yếu do tăng sản xuất từ quá trình thoái hoá nucleoprotein của tế bào bệnh lý hay khi điều trị bằng các thuốc độc tế bào. Acid uric máu trong nhóm này thường rất cao, vượt quá 10mg%. Bệnh xuất hiện với tỷ lệ thấp nhưng diễn biến nặng.

Bệnh gut nguyên phát

benh gut là một dạng viêm khớp do axit uric trong máu tăng cao, gây lắng đọng tinh thể urat tại các ổ xương khớp và các mô khác trong cơ thể là nguyên nhân gây ra những cơn đau, sưng khớp, đỏ và nóng. Nguyên nhân gây bệnh gut thì được chia ra làm 2 nhóm đó là gut nguyên phát và gut thứ phát. Bài này chúng ta sẽ tìm hiểu về bệnh gut nguyên phát, bài sau sẽ là bệnh gut thứ phát. 

Hình ảnh bệnh nhân gut

Bệnh gut nguyên phát có tính chất di truyền, liên quan tới rối loạn gen và mang tính gia đình rõ rệt là bệnh gắn liền với các yếu tố di truyền và cơ địa, những bệnh nhân này có quá trình tổng hợp purin nội sinh tăng nhiều, gây tang axit uric mau. Bệnh gut nguyên phát là nguyên nhân gây bệnh chủ yếu chiếm tới 95%. 
- Yếu tố di truyền chiếm đến 25% nếu bố hoặc mẹ bạn mắc bệnh gut thì bạn có nguy cơ mắc bệnh gut tăng lên 20% 
- Hội chứng X (rối loạn chuyển hóa glucid- protid-lipid): Làm tăng tổng hợp purin nội sinh, dẫn đến tạo nhiều acid uric, và tăng acid uric huyết thanh, gây bệnh gut.
- Đối với gout nguyên phát, thường liên quan giới tính, bệnh nhân mắc bệnh gout chiếm 95% là nam giới và thường khởi phát tuổi trung niên.
Bệnh gut nguyên phát thường khó xác định nguyên nhân cụ thể nhưng lại chiếm đến 95% trong khi đó bệnh gut thứ phát chỉ chiếm 5% và có nguyên nhân gây bệnh thường rõ ràng hơn. Tuy nhiên với tiến bộ khoa học như hiện nay thì bệnh nhân gut có thể kiểm soát được bằng chế độ ăn, sinh hoạt hợp lý đồng thời dùng thuốc theo sự hướng dẫn của bác sĩ.

Bệnh gut và nước soda có liên quan gì với nhau?

Những thói quen không tốt đang hiện hữu hàng ngày xung quanh ta. Mấy ai nghĩ việc uống nước soda lại có tác hại như vậy. Theo nghiên cứu thì Soda có đường có liên quan đến tất cả các bệnh, từ béo phì cho đến huyết áp cao. Trong thời gian thực hiện nghiên cứu về mối quan hệ giữa sự gia tăng trong tiêu thụ nước giải khát và sự gia tăng bệnh gout, các nhà nghiên cứu đã đưa ra được các số liệu: số người bị bệnh gout từ trước năm 1970 là 20 trên 100.000 người, vào giữa thập kỉ 90, con số này đã tăng lên trên gấp đôi so với tỉ lệ 45,9/100.000. Cùng với đó, số lượng tiêu thụ nước ngọt có ga ở người trưởng thành đã tăng 61% từ năm 1977 đến năm 1997.
Những bệnh nhân gout và việc uống soda là do trong soda có chứa đường fructose – loại đường làm tăng nồng độ axit uric, là nguyên nhân dẫn đến bệnh gout, fructose cũng có trong nhiều đồ uống và thực phẩm ngọt khác chứ không riêng gì soda.

bệnh gut

Mối liên hệ giữa gout và soda
Axit uric được thận lọc và bài tiết ra khỏi cơ thể bằng nước tiểu. Bệnh gout được hình thành do axit uric tích tụ trong máu, hình thành tinh thể axit uric trong một hay nhiều khớp xương và dẫn đến đau đớn. Có rất nhiều nguyên nhân làm cho nồng độ axit uric tăng cao và trong số đó là do nạp vào cơ thể quá nhiều fructose.
Theo như nghiên cứu của các nhà nghiên cứu cho thấy số người sử dụng nước ngọt có ga hai hoặc nhiều lần mỗi ngày có khả năng bị bệnh gout cao hơn 85% so với những người tiêu thụ ít hơn. Ngay cả trong nước trái cây đóng hộp có đường như nước cam cũng dễ dẫn đến nguy cơ bị bệnh.

ảnh minh họa

Ý nghĩa mối liên quan giữa bệnh gut và nước soda:
Theo lẽ thông thường thì việc phòng chống bệnh gout tập trung vào hạn chế các loại thực phẩm nhiều purin và rượu, bia điều này có thể làm giảm khả năng tích tụ axit uric trong cơ thể. Theo nghiên cứu mới này thì việc hạn chế uống nước soda cũng có vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa bệnh gout trong tương lai.
Khi bạn hạn chế uống nước ngọt không chỉ làm giảm nguy cơ bị bệnh gout mà còn chống béo phì và làm giảm lượng đường trong máu. Vì vậy, thay vì uống nước ngọt trong các bữa ăn, các bạn nên uống nước lọc. 

Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

9 câu hỏi thường gặp về bệnh lupus ban đỏ

Lupus ban đỏ là gì? 
Lupus ban đỏ là một bệnh tự miễn dịch, gây ra nhiều triệu chứng khác nhau như: nổi ban da, rụng tóc, đau khớp, sốt, tràn dịch màng phổi, viêm màng ngoài tim. Đôi khi, bệnh còn gây ra tổn thương những cơ quan quan trọng như thận, và hệ thần kinh trung ương. Vì bệnh gây ra những biến chứng nguy hiểm khi không được điều trị kịp thời làm ảnh hưởng đến hầu hết các cơ quan, bộ phận trên cơ thể nên người ta gọi nó là bệnh lupus ban đỏ hệ thống. 
Nguyên nhân gây ra bệnh lupus ban đỏ?
Nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa rõ. Đây là bệnh có xu hướng di truyền yếu. Chẳng hạn, trong một số gia đình, mẹ bị lupus thì con gái sinh ra cũng bị luôn. Đã có nhiều công trình nghiên cứu nhưng người ta cũng chưa tìm được nguyên nhân gây bệnh là do vi trùng hay virút. Yếu tố môi trường cũng không chắc chắn. Dù bệnh khởi phát ra sao đi chăng nữa, vấn đề cơ bản là sự suy giảm chức năng của hệ miễn dịch. 
Làm thế nào để chẩn đoán và theo dõi bệnh lupus ban đỏ?
Sau khi nghĩ đến chẩn đoán bệnh lupus, cần làm xét nghiệm máu giúp chẩn đoán xác định. Xét nghiệm chuẩn để phát hiện bệnh lupus là FAN ( yếu tố kháng nhân), lấy một ít máu, xét nghiệm này không đắt và có thể làm được ở một số bệnh viện. Nếu xét nghiệm cho kết quả dương tính, cần phải làm thêm các xét nghiệm máu khác đặc hiệu hơn để xác định chính xác mức độ lan rộng của bệnh và kiểu bệnh. Thường xuyên theo dõi bệnh. Cũng tránh trường hợp nhầm lẫn bệnh lupus với bệnh vẩy nến, mụn đỏ, và các bệnh ngoài da khác...


Điều trị bệnh lupus ban đỏ như thế nào?
Điều trị phải phù hợp với mức độ nặng và độ lan rộng của bệnh. Những dạng bệnh nhẹ thừơng dùng liều thấp corticoid để điều trị, thuốc kháng viêm không steroid và thuốc kháng sốt rét coi như là thuốc điều trị cơ bản. Trong trường hợp lupus có tổn thương nặng hơn, cần phải cho bệnh nhân dùng liều cao corticoid trong một thời gian ngắn, và kết hợp với thuốc ức chế miễn dịch như cyclophosphamide hoặc azathioprine. 
Bệnh lupus ban đỏ có chữa khỏi được không?
Không có biện pháp điều trị nào là điều trị hết vĩnh viễn bệnh lupus được, bệnh lupus ban đỏ là một căn về da bệnh mãn tính, nó có thể có giai đoạn lui bệnh dù được điều trị hay không điều trị. Bệnh lupus có thể có những đợt bùng phát cấp tính và giai đoạn hồi cũng tương đối lâu.
Những ai dễ mắc bệnh lupus ban đỏ?
Mọi người đều có thể mắc bệnh lupus. Tuy nhiên, nữ thuờng  mắc bệnh nhiều hơn nam giới với tỉ lệ là 9 :1 . Bệnh này thường gặp ở nữ trẻ tuổi. Bệnh lupus hiếm khi phát bệnh sau tuổi mãn kinh.


Chế độ ăn uống có ảnh hưởng đến bệnh lupus ban đỏ không?
Không, không có chế độ ăn uống nào gọi là có lợi hay hại đến tiến triển của bệnh lupus ban đỏ.
Người bị bệnh lupus ban đỏ có thể có con được không?
Đối với đa số người bệnh, câu trả lời là có. Vì vậy, quan điểm hiện nay là khác với những quan điểm lỗi thời là cấm nguời bị bệnh lupus không được có con . Tuy nhiên, cũng phải thận trọng ở một số ít người. Rõ ràng là đối với những người đang bị bệnh lupus tiến triển (đặc biệt là có tổn thương thận) thì tạm thời không nên mang thai. Ở một số phụ nữ bị bệnh lupus trong người có mang kháng thể đặc biệt gọi là kháng thể kháng phospholipides, dễ có nguy cơ xảy thai hơn và các vấn đề thai nhi nên cần phải theo dõi đặc biệt. Nhờ vào sự hợp tác chặc chẽ giữa bệnh nhân, bác sĩ chuyên về khớp, thận và sản khoa mà nhiếu người bị bệnh lupus ban đỏ rải rác mang thai một cách bình thường.
Con của người bị lupus ban đỏ có bị lupus ban đỏ không?
Đa số trường hợp là KHÔNG. Bệnh lupus có tính di truyền yếu hơn nhiều so với những bệnh di truyền khác. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp xảy ra là mẹ bị lupus ban đỏ thì con sinh ra cũng bị lupus ban đỏ, những trường hợp này cũng rất ít, người mẹ khi mang bầu cần điều trị thường xuyên, thăm khám bệnh định kì để con sinh ra được khỏe mạnh. 

Những tổn thương và biến chứng của bệnh lupus ban đỏ hệ thống

Lupus ban đỏ là một bệnh ngoài da nguy hiểm nhất, vì những tổn thương và biến chứng mà chúng gây ra cho người bệnh là rất nhiều. Từ những tổn thương về da cho đến những tổn thương bên trong cơ thể gần như là toàn bộ cơ thể khi mà bệnh nặng vì vậy chúng còn có tên gọi là lupus ban đỏ hệ thống. Lupus ban đỏ hệ thống nguy hiểm hơn rất nhiều so với các bệnh ngoài da khác như: bach bien, mụn trứng cá, dị ứng, mề đay, chua vay nen....

Lupus ban đỏ hệ thống ( ảnh minh họa)

Tổn thương cho da: tổn thương hình cánh bướm ở mũi là đặc trưng cho hầu hết những bệnh nhân bị bệnh lupus. Hồng ban cánh bướm ở mũi màu đỏ hồng, gồ lên mặt da, nặng lên khi ra ánh sáng mặt trời. Hồng ban không chỉ ảnh hưởng ở mặt mà còn ở những phần da khác của cơ thể, đặc biệt là ngón tay. Cũng có thể tổn thương dạng bông xuất hiện ở mu bàn tay, chi dưới, đặc biệt gặp ở xương bánh chè.

Tổn thương mắt: Khô mắt rất thường gặp. 

Tổn thương khớp: Đau khớp là một đặc tính rất thường gặp của bệnh lupus ban do. Đa số bệnh nhân, tiến triển của bệnh khớp không giống như viêm đa khớp dạng thấp, nghĩa là nó không làm tổn thương sụn và bào mòn xương. Tuy nhiên, đau khớp ít gặp trong giai đọan cấp, có thể rất nặng làm người bệnh không thể đi đứng được trong nhiều ngày. Một số bệnh nhân bị lupus bị bệnh khớp đặc biệt, gọi là bệnh khớp Jaccoud, trong bệnh này cả khớp và dây chằng đều bị. Các ngón tay bị gấp nhẹ. Người bệnh rất khó đối các ngón tay, khó gập các ngón vào lòng bàn tay. Ngón cái thường dạng quá mức. Hơn nữa, người bệnh có thể đau cơ nhiều. Cuối cùng, có thể đứt gân Achille, biến chứng này dễ xảy ra khi dùng corticoid kéo dài.

Tổn thương não: thường là đau đầu, động kinh, hội chứng trầm cảm, bệnh tâm thần, rối lọan nhận thức( như rối lọan trí nhớ chẳng hạn) hay có những cử động bất thường. Đau đầu thường gặp trong bệnh lupus, nhưng đau đầu cũng có thể có trước đó nhiều năm. Ở một số bệnh nhân, đau đầu theo kiểu đau nửa đầu kèm theo buồn nôn và ói mửa. Một số trường hợp đau đầu này có liên quan đến những rối loạn đông máu, nhất là do chức năng tiểu cầu. Tai biến mạch máu não, thường kèm liệt ½ người, cử động bất thường. Thường nhất, tai biến xuất hiện vào giai đọan đầu của bệnh. Tai biến có thể kèm theo động kinh nghĩa là co giật đột ngột, mất ý thức và tiểu ra quần.

Lupus ban đỏ toàn thân

Tổn thương mạch máu:  Viêm các mạch máu nhỏ(động mạch và tĩnh mạch) là một đặc tính chủ yếu của bệnh lupus. Thường hiện tượng này xuất hiện ở đầu chi và ở khủyu. Hiếm hơn là các mạch máu bên trong, đường kính lớn hơn cũng bị ảnh hưởng. Đôi khi mạch máu đáy mắt cũng bị, có màu đỏ hình bó đuốc. Cuối cùng một số bệnh nhân bị lupus có tình trạng tăng đông máu do sự có mặt của kháng thể kháng phospholipides.

Tổn thương tim và phổi: Ngoại tâm mạc và màng phổi có thể bị tổn thương viêm trong đợt bùng phát cấp tính của bệnh. Trong trường hợp viêm màng ngoài tim hoặc tràn dịch màng ngòai tim, người bệnh có triệu chứng đau ngực, tăng lên khi hít thở sâu. Mặt khác, bệnh nhân bị lupus ban đỏ cấp tính rải rác dễ bị nhiễm trùng phổi hơn do dùng thuốc ức chế miễn dịch, làm giảm khả năng đề kháng của cơ thể. Viêm phổi biểu hiện triệu chứng là ho có đàm, sốt, khó thở. Cuối cùng, một biến chứng nặng nhất của bệnh lupus là thuyên tắc phổi, thường gặp ở những bệnh nhân trong máu có kháng thể kháng phospholipides. Lâm sàng của thuyên tắc phổi là đau ngực, khó thở cấp tính, ho khạc ra máu. Điều trị thuyên tắc phổi là nhập viện và dùng thuốc kháng đông.

Tổn thương thận: Dấu hiệu sớm nhất thường gặp của viêm thận là tiểu ra proteine. Thận là một hệ thống lọc phức tạp, bình thường nó giữ protein lại trong máu không cho thóat qua nước tiểu. Nếu như cầu thận bị tổn thương, protein sẽ thóat ra và vào trong nước tiểu, đặc biệt là albumine. Do đó, điều quan trọng là phải đánh giá thường xuyên xem có hay không có albumine trong nước tiểu bằng que nhúng. Nhiều bệnh nhân tự theo dõi ở nhà bằng que nhúng để phát hiện albumine trong nước tiểu. Dấu hiệu thứ hai của bệnh thận là tiểu máu, nghĩa là có hồng cầu trong nước tiểu. Thường phát hiện bằng xét nghiệm nước tiểu qua kính hiển vi, phải làm thường xuyên, nước tiểu được lấy khi đói giúp cho cô đặc hơn. Thứ ba là, bệnh thận cũng có thể được phát hiện bằng biến chứng của tăng huyết áp. Vì vậy bạn nên kiểm tra và theo dõi huyết áp thường xuyên. Nếu phát hiện sớm thì chỉ có 5 đến 10 % bệnh nhân bị lupus có tổn thương thận cần lọc thận hay thậm chí ghép thận.

Tổn thương các cơ quan khác: Hạch và lách có thể bị phì đại, đặc biệt là trong giai đoạn cấp của bệnh. Gan hiếm khi bị ảnh hưởng trong bệnh lupus. Vì vậy vàng da trong bệnh lupus không thể coi như hậu quả của bệnh này. Tất cả những yếu tố trong máu ( hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu) đều có thể bị ảnh hưởng và giảm.

Lupus ban đỏ dạng đĩa

Lupus ban do dạng đĩa là rất hay gặp nhất, chiếm khoảng 50-85% số bệnh nhân lupus ban đỏ. Đây là thể nhẹ của lupus ban đỏ, bệnh chỉ có thương tổn ở da, không có thương tổn nội tạng. Lupus ban đỏ dạng đĩa thường có các triệu chứng như ban đỏ, dày sừng, teo da. Ban đầu bệnh nhân nổi những sẩn hoặc mảng đỏ kèm theo vảy da. Sau đó, vảy da dày, dính và có thể thay đổi sắc tố. Sẹo teo được hình thành dần dần qua nhiều tháng năm, sẹo thành điểm nhỏ hoặc đám đều đặn, lõm, màu trắng ngà, có ranh giới rõ, trên vết sẹo teo da có hình dãn mạch lăn tăn, ấn lên tổn thương có cảm giác cộm ít nhiều và hơi đau, hình dáng lâm sàng có thể đa dạng tùy theo vị trí: trên sống mũi, gò má,vùng trước tai đối xứng thành hình cánh bướm, ở da đầu thành vết đỏ có vẩy gắn chặt... Khoảng 5% bệnh nhân lupus ban đỏ dạng đĩa có triệu chứng toàn thân ( tiến triển thành lupus ban đỏ hệ thống) đau khớp, viêm màng phổi, viêm màng ngoài tim, triệu chứng thần kinh, triệu chứng thận. Cần phân biệt lupus ban đỏ dạng đĩa với lao da, á sừng liên cầu, vảy nến, nấm da, trứng cá đỏ...

lupus ban đỏ, bệnh lupus ban đỏ, lupus ban do
Lupus ban đỏ dạng đĩa

- Cho đến nay người ta vẫn chưa hiểu hoàn toàn về căn bệnh ngoài da này. Y học đã ghi nhận nhiều yếu tố có liên quan đến bệnh như: di truyền, ánh nắng mặt trời, nhiễm khuẩn và đặc biệt là rối loạn miễn dịch tại chỗ. Tuy nhiên, vẫn không tìm thấy kháng thể kháng nhân trong huyết thanh, hơn nữa nồng độ bổ thể trong máu vẫn bình thường nên người ta cho rằng cơ chế bệnh sinh của lupus ban đỏ dạng đĩa và lupus ban đỏ hệ thống là khác nhau. Tổn thương ngón tay, ngón chân có thể rất nặng và gây đau khi có nứt. Móng tay thường dễ bị tổn thương và gẫy. Ngoài ra, cũng có thể thấy những sang thương ở ống tai ngoài. Ở một số bệnh nhân, còn gặp loét miệng. Một tỉ lệ lớn bệnh nhân bị lupus dạng đĩa cũng bị khô mắt, khô miệng, gặp trong hội chứng Sjögren, đòi hỏi phải điều trị bằng nước mắt nhân tạo. Bệnh nhân bị lupus dạng đĩa cũng có thể kèm viêm khớp. Người bệnh thường than đau khớp giống như viêm khớp dạng thấp, nhưng tổn thương da vẫn nằm trong lupus dạng đĩa. 
- Lupus ban đỏ dạng đĩa không những gây tổn thương ở da, mà còn gây ảnh hưởng rất nhiều đến vấn đề tâm lý của bệnh nhân vì những tổn thương nằm ngày trên bề mặt da. Bản thân bệnh cũng có thể làm người bệnh bị trầm cảm , mệt mỏi khó giải thích.
- Phương pháp điều trị bệnh hiện nay là dùng các thuốc bôi tại chỗ có corticoid như eumovate, diprosalic hoặc dermovate. Toàn thân: dùng các thuốc chống sốt rét có tác dụng rất tốt, song phải điều trị lâu dài nên cần phải theo dõi thị lực ít nhất 3 tháng/lần.

Thứ Năm, 15 tháng 5, 2014

Khi nào nên phẫu thuật u xơ tử cung?

Chào bác sĩ! Tôi sinh năm 1983, hiện có hai con, đứa bé được 1 tuổi vẫn còn đang bú mẹ. Tôi đi khám và bác sĩ kết luận tôi bị u xơ tử cung, khối u có kích thước 42x61x51mm, với triệu chứng đau tức ở vùng bụng dưới và đau nhiều khi đến chu kỳ kinh nguyệt, kéo dài 10-12 ngày. Với kích thước và triệu chứng như vậy, tôi có nên mổ ngay không?

Nguyễn Lan Anh ( Hải Phòng)

Bác Sĩ Lan Phương trả lời:

Chào chị,
U xơ tử cung nói đúng theo thuật ngữ y khoa là u cơ trơn tử cung, là một loại u thường gặp ở tử cung. Phụ nữ thường bị u xơ tử cung trong khoảng 30-45 tuổi. Đây là loại u chịu ảnh hưởng của nội tiết tố: khi estrogen cao, u to ra và khi estrogen giảm (giai đoạn mãn kinh), u dần nhỏ lại.
Điều trị phẫu thuật u xơ chỉ có chỉ định trong các trường hợp sau:
- U nằm trong dây chằng rộng
- Khi nghi ngờ u hóa ác tính
- U xơ tử cung nằm dưới niêm mạc
- Khi u chèn ép niệu quản, gây thận ứ nước
- Khi có triệu chứng rong kinh, rong huyết, cường kinh kéo dài, điều trị nội tiết không cải thiện
- Khi u xơ cơ tử cung to tương đương một tử cung có thai trên 12 tuần, vì trong trường hợp này u dễ có khả năng gây biến chứng chèn ép các cơ quan trong ổ bụng và dễ bị thoái hóa.

Mùa thu dễ tái phát u xơ tử cung, u nang buồng trứng

Trường hợp của chị: chị năm nay 31 tuổi, đã có 2 con, con thứ 2 mới 1 tuổi và cháu vẫn còn đang bú mẹ, chị có nhân xơ tử cung có kích thước 42x61x51mm, chị có tình trạng rong kinh kéo dài 10-12 ngày. Nếu điều trị phẫu thuật có thể là bóc khối u hay cắt tử cung tùy vào lứa tuổi và tùy ý muốn có con. Chị có hỏi nên mổ hay không, theo tôi, chị nên đi khám tại chuyên khoa để đánh giá các vấn đề cụ thể: Nhân xơ tử cung của chị được phát hiện từ khi nào, tốc độ phát triển ra sao, vị trí nhân xơ ở đâu? Tôi nghĩ nhân xơ của chị đã có thể có từ trước khi chị có thai lần 2 và sau sinh, kích thước nhân xơ sẽ có xu hướng nhỏ dần.  Nếu nhân xơ có xu hướng lớn nhanh thì có thể phải mổ. Vì chị còn trẻ nên khi mổ sẽ cố gắng bóc nhân xơ để bảo tồn tử cung(nếu chị còn muốn sinh em bé tiếp) tuy nhiên trong cuộc mổ có thể không bóc được sẽ cắt tử cung. Một số nghiên cứu cho thấy mổ cắt tử cung có thể gây ảnh hưởng tâm lý người phụ nữ rất nhiều. Còn trường hợp rong kinh, rong kinh xuất hiện từ khi nào? Có thể do rối loạn nội tiết trong giai đoạn cho con bú vì rối loạn rụng trứng. Nếu bác sĩ kiểm tra nghĩ rong kinh do nhân xơ tử cung thì điều trị nội tiết sẽ ổn định được tình trạng này. Chúc chị có sức khỏe tốt.